Monday, May 19, 2014

Sự Vận Hành Của Cái Trí


Cái Trí Không Chính Xác - - -
Vấn đề tiên quyết của cái trí là sự thiếu chính xác của nó. Cái gọi là “kiến thức” của cái trí thường nầy quả thật “không chính xác”. Dưới đây là ba thí dụ gồm những kết luận thiếu chính xác của cái trí:
Thí dụ thứ nhất: khi mắt bạn nhìn thấy bạn gieo một hạt giống xuống đất, một thời gian ngắn sau, mắt lại thấy nơi đó mọc lên một cái cây, cái trí kết luận là “cây đó tôi trồng” và thậm chí còn đi xa hơn, quả quyết rằng “cây đó của tôi.” Nói thực tế chính xác thì mắt chỉ nhìn thấy hai việc: Một là tay bạn gieo hạt giống, hai là tại chỗ ấy có một cây mọc. Chỉ thấy biết vỏn vẹn hai điều trên, cái trí đã kết luận rằng hiện tượng thứ hai (cây) là kết quả của hiện tượng thứ nhất (gieo hạt giống).
Cái sai hoặc không chính xác ở đây là mắt không hề nhìn thấy nhiều yếu tố khác nữa đã tạo nên cái cây kia như: đất, nước, không khí, ánh nắng mặt trời, khoáng chất, phân bón v.v.
Nhưng ngược lại, nếu kết luận rằng “cái hạt giống là do tôi trồng và cũng nhờ đất, nước, mặt trời, v.v. mà cây mọc lên” thì cái kết luận của cái trí phàm nầy cũng vẫn không chính xác. Tại sao không? Bởi vì mắt “thật sự” chỉ “thấy” việc gieo một hạt giống và thấy có một cái cây mọc lên mà thôi chứ có thấy gì khác đâu! Cái trí lấy kiến thức có sẵn từ “kho” trí nhớ (đất, nước, ánh sáng, v.v…) ráp vô với hiện tượng vừa thấy-biết (gieo hạt và một cây mọc lên) rồi đi đến một kết luận.  Tuy nhiên, biết đâu cái cây đó là do một hột giống khác, do một người khác trồng, do một ngàn lẻ một lý do khác thì sao? Do đó, khi mắt nhìn thấy “A” rồi thấy tiếp theo là “B”, chưa chắc gì “B” là kết quả của “A”. Vì vậy, cái trí chính xác là cái trí chỉ thấy và biết “A” là “A”, “B” là “B”, không kết luận lung tung thêm.
            Thí dụ thứ hai: Khi vị thầy thuốc “chữa bịnh” xong, bịnh nhân hết bịnh. Cái trí của vị thầy thuốc kết luận: “tui chữa hết bịnh”. Cái trí đó có thể cũng không chính xác vì biết đâu thầy thuốc “chữa bịnh” xong, rất có thể là muôn ngàn thứ khác như thực phẩm, hơi thở, tinh thần thay đổi, tâm trí yên vui, duyên nghiệp đã dứt .v.v hợp với cái “chữa bịnh” kia đã làm cho bịnh nhân hết bịnh. Cái trí không hề nhận được những thông tin nầy. Nhưng cho dù nó có nhận được đi nữa, nhưng những kết luận của cái trí phàm nầy đều có khả năng bị sai. Cũng như khi chữa mà bịnh nhân không hết bịnh hoặc chết thì cũng không thể kết luận là do thầy thuốc tồi quá hoặc kết luận là thuốc dở quá.
Thí dụ thứ ba: Vợ chồng giao hợp, sau chín tháng sinh ra một “con người” nhỏ xíu. Cái trí kết luận rằng: “Con người đó tôi tạo nên, nó là con của tôi. Nó thuộc về tôi.” Cái trí kết luận như thế mặc dù nó không biết có thể còn có những nhân duyên bí ẩn nào hoặc lực nào đã phối hợp để đưa cái “sinh mệnh” kia vào cuộc đời nầy hay chăng?
Trong những thí dụ nầy, cho dù cái trí có kết luận khác đi bằng cách dùng những kiến thức cất chứa sẵn chăng nữa thì cũng vẫn không chính xác vì cái trí luôn bị giới hạn trong cái “biết” của nó.  Trong cái quan sát giới hạn, nó có thói quen diễn giải, lý luận và đem những “kiến thức” cũ lắp vào các khoảng trống của hiểu biết. 
Khái niệm trên có thể áp dụng cho cả hữu hình lẫn vô hình. Khi người có khả năng “nhìn” thấy một hình ảnh trong cõi vô hình rồi đi đến một kết luận nào đó thì vẫn phải xét lại mức độ chính xác của cái trí lúc đó. Thậm chí, ngay cả những khả năng “nhìn thấy” được tiền kiếp của một người cũng thường bị cái trí phàm kết luận “ẩu” như trên.
Cái trí chính xác phải là cái trí của Tĩnh Lặng, chỉ nhận thông tin mà không hề thêm bớt gì. Hoặc giả khi cần diễn giải hay suy luận thì cái trí ấy ở trong Tĩnh Lặng, đồng thời luôn ý thức rằng mình đang suy luận, diễn giải và cũng “ý thức” rằng cái kết luận của mình luôn có thể là không chính xác.
Tại sao chúng ta cần phải dùng cái trí “chính xác” trên đây cho tất cả hiện tượng trong đời sống? Ta cần dùng nó là để giúp ta thoát ra khỏi cái đau khổ do cái nhìn sai lệch của trí phàm gây nên.
Nói tóm lại, cứ mỗi khi cái trí đi đến một “kết luận” nào, ta nên ý thức về cái của nó. Cái nhìn, cái tiến trình như thế nào mới gọi là chính xác? Đó là cái nhìn hiện thực qua một tâm trí trong sự Tĩnh Lặng hoàn toàn. Nó diễn ra mà không xét đoán, phê phán, đề nghị hoặc diễn giải. Nó chỉ là những quan sát và nhận biết trong yên bình.
Những Cái Nên Và Không Nên Của Cái Trí
Vấn đề trở nên nghiêm trọng hơn một khi “cái trí không chính xác” dựa trên những kiến thức sai lệch của nó mà phán xét. Sau đây là những tư tưởng điển hình thường xuất hiện trong tiến trình của cái trí đó.  Bản thân các câu nầy không gây đau khổ nhưng khi cái trí cứ nhất định áp dụng nó trong mọi trường hợp, bất kể mọi lý lẽ, thì sự phiền não sẽ đến ngay. Những thí dụ dưới đây cho thấy cái trí đã vào tìm kiếm ở ngăn ký ức, nơi mà nó đã ghi được mọi thứ: từ nghe, thấy và trải nghiệm, đến các tập tục, lề lối, quy ước và mong muốn, rồi khư khư áp dụng những giá trị và quan niệm cũ nầy vào các quan sát mới. Rồi nếu thế giới chung quanh không tuân thủ theo, cái trí bị cảm thấy bực bội. Có thể nó sẽ lải nhải liên tục hoặc nó sẽ vật vã, phiền não vô cùng. Nếu những tư tưởng nầy lặp đi lặp lại trong đầu và gây phiền não cho bạn thì pháp Tại và Hiện đúng là dành cho bạn đấy!
Những thí dụ sau đây cho ta thấy cách cái trí lấy dữ liệu từ các giác quan, rồi áp dụng đòi hỏi và phán xét của nó để gây bực bội, phiền não cho ta:
~Thị giác: “Quan niệm của tôi là phải sống một cách ngăn nắp, thứ tự, sạch sẽ … Vì thế mắt tôi muốn luôn luôn nhìn thấy mọi thứ được sắp xếp thứ tự, ngăn nắp, chỗ nào cũng sạch sẽ… Tôi cảm thấy rất khó chịu khi phải sống chung với những người có tính bê bối, không gọn gàng… Họ nên sống cuộc đời họ sạch sẽ, khỏe mạnh hơn.”   
~Thính giác: Lỗ tai tôi không thích nghe những tiếng động gây ồn ào một cách vô ý thức. Tôi rất bực mình khi người khác đóng cửa mạnh, lê giày dép lẹp xẹp, rửa chén khua lẻng kẻng, nói to khi dùng phone di động hay nói ồn ào khi xem phim trong rạp.”
~Vị giác: “Tôi ăn uống khá kén chọn. Không hợp khẩu vị thì thà nhịn đói chứ không ăn. Lên bữa ăn mà thực phẩm dở, không thơm ngon, tôi cảm thấy rất bực mình.”
Cái trí của chúng ta còn có khả năng làm những phán đoán phức tạp và tinh vi hơn dựa trên những quan sát của nó. Cái trí nắm giữ và dùng một số định kiến để làm méo mó những thông tin từ ngoài vào. Các định kiến thường là về sự liên hệ, giá trị, vai trò và bản thân.
~Giá Trị: “Nếu mặc cái áo nầy ra đường, người ta sẽ cười tôi (nhà quê, nghèo, già v.v...) hay người ta sẽ khen tôi (sang trọng, đẹp, hợp thời trang v.v…) Tôi nhìn người kia ăn mặc, đi loại xe nào, dáng dấp ra sao v.v.) là tôi biết liền họ thuộc type nào, tầng lớp nào v.v…” Đây là cái trí định nghĩa một số giá trị qua cái nhìn bên ngoài và rất quan tâm đến sự khen, chê của người khác. Nó sẽ phiền não khi không có điều kiện trang điểm phía bên ngoài cho bản thân hay người trong gia đình theo đúng ý.
~Định Danh Về Cái Ta (Identity): “Tôi mất việc làm và tất cả tiền bạc. Tôi là con người hoàn toàn thất bại”. Cách suy nghĩ sai lầm trên đây của cái trí làm chúng ta tưởng rằng chúng ta là tác nhân trực tiếp và duy nhất tạo ra mọi hiện tượng và sự vật biểu hiệu của thành công hay thất bại trong đời mình. Điều cực kỳ quan trọng là làm sao để cái trí nhận ra và hiểu rằng chúng ta chỉ tham gia và không hề có khả năng thật sự tạo ra trọn vẹn một kết quả nào cả. Thí dụ, thay vì cái trí thấy rằng “cái cơ nghiệp mà tôi đã tạo ra” hay “cái cơ nghiệp mà tôi đã làm mất (tiêu tan)”, thì cái trí khi nhìn một cơ nghiệp thì chỉ nên thấy đơn thuần là một “cơ nghiệp” mà thôi. Cái trí không nên thấy “mình” là cơ nghiệp, hay cơ nghiệp là “mình”. Cách nhìn đúng đắn nầy sẽ giúp cho chúng ta vượt qua những đau khổ có liên hệ đến thành công hay thất bại, được còn hay mất mát, vinh quang hay nhục nhã… Và cách nhìn nầy cũng có thể giải phóng chúng ta ra khỏi ảo tưởng thường trói chặt ta là: “Tôi luôn luôn là người kiểm soát và làm chủ mọi sự việc trong đời tôi” hoặc “tôi là những gì tôi sở hữu hoặc thành đạt được.”
~Các mối liên hệ và vai trò trong xã hội: “Họ là người thân của tôi ( cha, mẹ, anh, chị, em, bạn bè, chồng, vợ, con, cháu v.v...) mà khi tôi gặp khó khăn, cần được giúp đỡ, họ không giúp đỡ tôi.” Ở đây, cái trí định nghĩa sự liên hệ gia đình dính líu đến một số trách nhiệm nào đó, nếu ai không tuân thủ thì nó phiền não, trách móc.
“Con cái phải vâng lời, hiếu thảo với cha mẹ.”  “Cha mẹ phải thương yêu đồng đều, chăm sóc, lo lắng cho con cái đến nơi, đến chốn.” Đối với cái trí, vai trò của con cái và cha mẹ thương gắn liền với một số trách nhiệm và đòi hỏi. Cái trí phán đoán, trách móc và phê bình nếu những thứ nầy không đáp ứng đầy đủ. Nếu đứa con không gọi điện thoại hay thăm viếng cha mẹ, cha mẹ sẽ buồn phiền. Còn người con thì mặc cảm thiếu bổn phận, tự ghét và trách mình đã không làm tròn bổn phận, không thỏa đáng được những đòi hỏi nầy. Sự đòi hỏi có thể đi đến những thái cực quá đáng mà người ta không hề ý thức. Thí dụ như một trường hợp có thật mà chúng tôi biết được: một bà mẹ buộc con gái mình phải trả hiếu bằng cách bán thân đem tiền về cho bà cờ bạc.
“Công việc của người đàn bà trong gia đình là chăm sóc nhà cửa, chồng, con. Công việc của người đàn ông là cung cấp tài chánh, vật chất, dạy con học.” Một lần nữa, cái trí gắn liền các đòi hỏi với một số vai trò trong xã hội. Cũng như mọi quan niệm khác, nếu vì lý do nào đó mà ai không đáp ứng được trọn vẹn các nhiệm vụ mà cái trí định nghĩa cho một vai trò thì cái trí sẽ khắc khoải, nhắc nhở, than phiền mãi vậy.”
Về mặt cái trí, trục trặc lớn nhất trong cuộc đời nầy thường là sự liên hệ giữa con người với nhau. Ta cần phải nhìn mọi người một cách chính xác. Thí dụ, ta nên nhìn người bạn đời như sau: “Đây là một con người mà trước khi gặp tôi, đã sống mấy chục năm trên trái đất nầy, có riêng đầy đủ những quan niệm không “chính xác”, cơ thể và tinh thần hoàn toàn biệt lập với tôi.” Có khi nào bạn chợt nhận ra là ngoài việc để làm người phối ngẫu của bạn, người ấy còn hiện diện trên đời nầy với những mục đích riêng hay khác không? Cái nhìn nầy sẽ giúp cái trí ta chấp nhận, tôn trọng mọi người chung quanh và không còn có nhu cầu buộc họ phải bỏ cái “không chính xác” của họ để phải tuân theo cái “không chính xác” của mình.
Quá Khứ Và Tương Lai Vô Tận Của Cái Trí
Cái trí thường thường không cần dùng đến việc quán sát để làm vui vì nó luôn luôn có quá khứ và tương lai để bận tâm đến. Nguồn gốc lớn của đau khổ phát xuất từ một cái trí liên tục hồi tưởng và sống trở lại trong quá khứ, không ngừng nghỉ, lo lắng và hoang tưởng về tương lai.. Chúng ta thường hay bị mất cơ hội trải nghiệm ngay hiện tại chỉ vì cái trí cứ lấy sự đau đớn, sự ân hận từ quá khứ để hồi tưởng và sống lại những cảm xúc ấy như một cái máy hát đĩa cũ bị vấp.
Ngoài ra, chúng ta cũng sống một phần của thời tương lai bằng sự lo lắng, sự dự trù toan tính và mơ mộng hoang tưởng quá mức.
Đau khổ đến ngay khi chúng ta lo lắng việc khi nào kết hôn, khi nào có con, bao giờ thì sẽ có một số tiền nào đó v.v. Cái trí cứ lẩn quẩn đeo đuổi những sự kiện hoàn toàn thuộc về một thời khắc khác rồi lôi kéo, thôi thúc ta đem chúng ra sống trong thời điểm hiện tại.
Nói tóm lại, đây là cách mà qua sự vận hành rối loạn, cái trí tạo nên những đau khổ cho chúng ta:
·        Nó bận rộn lặp đi lặp lại những phiền não từ quá khứ.
·        Nó đắm chìm trong lo lắng, sợ hãi, và lẩn quẩn mơ tưởng việc tương lai.
·        Nó khắc khoải, vật vã trong việc ứng dụng một cách cứng nhắc, bất kể lý lẽ, các quan niệm, nhân sinh quan mà xã hội loài người đã đặt ra.
·        Nó tích cực phán đoán, phân tích, nhục mạ, cãi vã, xây dựng các hình ảnh và cảm xúc của bạo động, oán hờn, thù ghét, ganh tị, v.v…
·        Nó cũng là tác nhân mang nhiều bịnh hoạn và đau đớn cho cơ thể vì sự miên man tai hại kia cứ liên tục chuyển sự nhiễu loạn của tư tưởng đến các tế bào.
Khi một người lẩm bẩm nói một mình suốt ngày thì ta cho là bịnh tâm thần. Còn bản thân ta và tất cả mọi người còn lại thì cũng nói suốt ngày đêm, không ngừng nghỉ, khác chăng là ta nói âm thầm trong đầu, không phát thành lời mà thôi. Đây là một căn bịnh trầm kha nhưng vì mọi người ai cũng bị mắc phải bịnh nầy nên tưởng rằng đây là một trạng thái “bình thường”. Điều nầy có nghĩa rằng thay vì ta là người chủ điều khiển cái công cụ “trí” kia thì trong thực tế, cái trí miên man đó đang chủ động và điều khiển ta. Nó thúc đẩy từng ý tưởng, lời nói, việc làm, cảm xúc mà ta tưởng rằng ta làm, ta muốn, ta đau khổ. Ngày nào chúng ta chưa làm được việc TẮT cái trí nầy khi cần tắt, thì chúng ta vẫn chưa thoát khỏi đau khổ.
Mục tiêu ở đây không phải là bỏ quên quá khứ hay là không dự tính tương lai. Cũng không phải là không có ý niệm hay quan điểm. Cái vấn đề đặt ra ở đây là tiến trình (processes) suy nghĩ đưa đến những tình trạng như đã nêu ở trên, nó xảy ra một cách tự động và theo thói quen. Khi chúng ta nói rằng chúng ta muốn vặn tắt cái trí là chúng ta muốn lấy lại sự chủ động đối với tiến trình đó. Chúng ta muốn vặn tắt cái công tắc tự động. Nghĩa là mục tiêu của chúng ta là phải có khả năng chọn lựa và áp dụng – chúng ta sẽ chọn lựa khi nào nên áp dụng một quan niệm hay một định kiến, khi nào nên hồi tưởng việc quá khứ hoặc lúc nào nên dùng những hình ảnh, những cảm xúc sẵn có bên trong.
Cái trí không phải là một tai họa cho nhân loại. Ngược lại – nó sẽ trở nên một bộ máy rất quý báu nếu mình biết cách dùng nó. Chúng ta cần lấy lại sự chủ động đối với cái trí và tự giải phóng mình ra khỏi những thói quen tai hại của nó, hầu tìm được hạnh phúc lâu dài. Một khi chúng ta đã trở thành chủ nhân của cái trí mình, chúng ta có thể vun bồi cho nó những tính chất hay ho như sự sáng tạo và sự tỉnh giác (awareness). Một khi chúng ta hiểu được tiến trình lý luận và diễn giải của cái trí, chúng ta có thể dùng cái trí như là một công cụ để vun trồng và nâng cao tâm thức cho mình và cho người khác.
Muốn vượt ra khỏi đau khổ cần phải có ba việc: Hiểu biết về cái trí và những thói quen của nó,  một phương pháp để an hòa nó, và quan trọng nhất là sự thức giác về bản thân cũng như về sự liên hệ giữa ta và mọi người.
Chương nầy chúng tôi đã giới thiệu về tiến trình của cái trí, chương kế tiếp sẽ giới thiệu về một phương cách dùng để tu dưỡng cái thức giác cần thiết nói trên. Phương pháp nầy tuy chỉ là một trong những vô số phương pháp thiền đang được phát triển hiện nay. Tuy nhiên, chúng tôi thấy rằng đây là một phương pháp đơn giản, dễ dàng và rất ứng nghiệm để đạt tới sự Tĩnh Lặng và thức giác cần thiết. Chúng tôi hy vọng rằng nó sẽ rất hữu ích cho những ai còn chưa tìm được một phương tiện thích hợp cho việc tìm kiếm một hạnh phúc lâu bền.

0 comments:

Post a Comment

Twitter Delicious Facebook Digg Stumbleupon Favorites More