Tuesday, May 20, 2014

Ngoại quan và thực tại

Tác giả: Bertrand Russell----
Liệu có loại tri thức nào chắc chắn tới độ không ai có lí tính lại có thể hoài nghi? Câu hỏi này, thoạt xem có vẻ không khó, nhưng thực sự lại là một trong số những câu hỏi hóc búa nhất có thể đặt ra. Khi chúng ta nhận ra được những chướng ngại cho một câu trả lời thẳng thắn và tin cậy, chúng ta sẽ bước vào lãnh địa nghiên cứu triết họcvì triết học đơn thuần là nỗ lực giải đáp các câu hỏi rốt ráo như thế, không cẩu thả và võ đoán, như chúng ta vẫn thường như vậy trong đời thường và ngay cả trong khoa học, mà mang tính phê phán, sau khi thăm dò tất cả những gì khiến cho những câu hỏi ấy thành ra khó trả lời, và sau khi nhận ra mọi sự mơ hồ và bối rối tiềm ẩn dưới những ý niệm thông thường của chúng ta.  

Trong sinh hoạt hàng ngày, chúng ta giả định nhiều sự việc là chắc chắn, thế nhưng khi khảo sát kĩ hơn lại phát hiện đầy dẫy những mâu thuẫn mà chỉ có nhờ tư duy sâu xa chúng ta mới có thể biết điều mà chúng ta thực sự tin tưởng là gì. Trong cuộc tìm kiếm tính chắc chắn, theo tự nhiên chúng ta xuất phát từ những kinh nghiệm hiện tại của mình, và trong ý nghĩa nào đó tri thức phát sinh từ những kinh nghiệm đó. Thế nhưng, bất cứ phát biểu nào về điều mà chúng ta biết được qua kinh nghiệm trực tiếp của chúng ta rất có thể lại là sai. Có vẻ như với tôi hiện tại tôi đang ngồi trên một cái ghế, bên một cái bàn có hình dạng nhất định, từ đó tôi nhìn thấy những tờ giấy có chữ viết hay chữ in. Khi ngoảnh đầu, tôi thấy bên ngoài cửa sổ những toà nhà, mây, và mặt trời. Tôi tin rằng mặt trời cách xa quả đất khoảng chín mươi ba triệu dặm [khoảng 150 triệu cây số]; rằng nó là một quả cầu nóng và lớn hơn quả đất gấp nhiều lần; rằng nhờ quả đất tự xoay quanh nó, mặt trời mọc mỗi sáng, và sẽ tiếp tục như thế suốt một thời gian bất định trong tương lai. Tôi tin rằng, nếu bất kì người bình thường nào khác vào trong phòng tôi, người ấy sẽ nhìn thấy cũng ghế, bàn, sách và giấy như tôi nhìn thấy, và cái bàn mà tôi thấy cũng là cái bàn mà tôi cảm thấy qua cánh tay đang áp sát vào bàn. Tất cả điều này có vẻ hiển nhiên đến mức hầu như không có gì đáng nói, ngoại trừ khi trả lời một người nghi ngờ liệu tôi có biết gì hay không. Tuy nhiên, việc nghi ngờ tất cả những điều này là hoàn toàn có lý, và tất cả đòi hỏi chúng ta phải thảo luận rất cẩn thận trước khi có thể cầm chắc rằng chúng ta đã phát biểu theo một cách thức hoàn toàn xác thực.  
 
Để cho vấn đề dễ hiểu, chúng ta hãy tập trung vào cái bàn. Với mắt nhìn, nó có hình chữ nhật, màu nâu và sáng bóng, với xúc giác, nó nhẵn, mát, và cứng; khi tôi gõ nhẹ, nó phát ra âm mộc. Bất kì ai khác nhìn thấy, cảm thấy, và nghe thấy cái bàn sẽ đồng ý với lối miêu tả này, vì thế gần như không thể có khó khăn nào nảy sinh; thế nhưng vừa khi chúng ta cố muốn chính xác hơn thì vấn đề lại nảy sinh. Mặc dù tôi tin rằng cái bàn 'thực sự' toàn bộ có cùng một màu sắc, những phần nào phản quang thì trông sáng hơn nhiều so với những phần khác, và một số phần có vẻ màu trắng do ánh sáng phản chiếu. Tôi biết, nếu tôi di động, các phần phản quang sẽ khác nhau, vì thế sự phân bố các màu sắc trên cái bàn sẽ thay đổi. Do vậy, nếu có một số người đồng thời nhìn vào cái bàn, không có chuyện hai người cùng nhìn thấy sự phân bố màu sắc giống hệt nhau, bởi không có chưyện cả hai người nhìn vào đó từ cùng một góc nhìn, và bất cứ thay đổi nào về góc nhìn đều tạo ra thay đổi trong cách mà ánh sáng phản chiếu.

Đối với những mục đích thực dụng nhất thì những khác biệt này không quan trọng, nhưng đối với người hoạ sĩ thì chúng lại cực kì trọng yếu: người hoạ sĩ phải bỏ thói quen cho rằng sự vật dường như có màu sắc mà chúng ta cho rằng chúng 'thực sự' có theo lối suy nghĩ thông thường, và học nhìn sự vật theo như chúng biểu hiện. Ở đây, chúng ta vừa bắt đầu đi vào một trong những sự phân biệt vốn gây ra nhiều vấn đề nhất trong triết họcsự phân biệt giữa 'ngoại quan' và 'thực tại', giữa những gì sự vật có vẻ là với những gì chúng là. Hoạ sĩ muốn biết những gì sự vật có vẻ là, người thực tiễn và nhà triết học muốn biết những gì chúng là; nhưng mong muốn biết của nhà triết học về điều này mạnh mẽ hơn mong muốn của người thực tiễn, và vấp phải nhiều vấn đề hơn do tri thức liên quan tới những khó khăn trong giải đáp câu hỏi.

Trở lại với cái bàn. Như vậy, chúng ta đã thấy rõ rằng không có màu nào là màu của cái bàn, hoặc bất cứ phần nào của cái bàn cả— cái bàn có những màu khác nhau từ những góc nhìn khác nhau, và không có lí do gì để coi một số màu nào đó mới thực sự là màu của cái bàn. Và chúng ta biết rằng ngay cả từ một góc nhìn nào đó, màu sắc sẽ có vẻ khác nhau do ánh sáng nhân tạo, hoặc đối với người mù màu, hoặc với người mang cặp kính màu lam, khi ở trong bóng tối sẽ không còn màu sắc nào nữa, tuy đối với xúc giác và thính giác thì cái bàn không thay đổi. Màu sắc này không phải là cái gì đó cố hữu trong cái bàn, mà là cái gì đó phụ thuộc vào cái bàn, vào người xem và vào phương thức ánh sáng hắt lên bàn. Trong đời thường, khi chúng ta nói về “màu của cái bàn”, thực ra chúng ta chỉ có ý nói tới loại màu sắc mà có vẻ như là của cái bàn trong mắt người xem bình thường từ một góc nhìn thông thường dưới những điều kiện ánh sáng bình thường. Thế nhưng những màu khác xuất hiện dưới những điều kiện khác đều có quyền chính đáng được coi là thật; và do đó để tránh sự thiên vị, chúng ta buộc phải khẳng định rằng cái bàn trong tự thân của nó không có bất kì màu đặc thù nào.    

Đối với kết cấu gỗ cũng tương tự. Bằng mắt thường người ta có thể thấy vân gỗ, nhưng mặt khác, cái bàn trông nhẵn và phẳng. Nếu nhìn qua kính hiển vi, chúng ta sẽ thấy độ gồ ghề, đồi núi và thung lũng, và đủ mọi loại khác biệt vốn không thể nhận thấy bằng mắt thường. Cái nào trong những thứ này là cái bàn 'thật'? Chúng ta tự nhiên có xu hướng cho rằng những gì thấy qua kính hiển vi là thật hơn, nhưng điều đó lần lượt sẽ còn thay đổi qua một loại kính hiển vi có độ phóng đại lớn hơn. Vậy thì, nếu chúng ta không thể tin cậy vào những gì thấy được bằng mắt thường, tại sao chúng ta lại tin cậy những gì thấy qua kính hiển vi? Như vậy, một lần nữa, sự tin tưởng vào các giác quan mà từ đó chúng ta xuất phát, lại bỏ rơi chúng ta.          

Hình dạng cái bàn cũng không khả quan hơn. Chúng ta tất cả đều có thói quen phán đoán dựa theo những hình dạng 'có thật' của sự vật, và chúng ta làm điều này rất ư khinh suất đến độ cho rằng mình thực sự nhìn thấy những hình dạng có thật. Nhưng, trên thực tế từ những góc nhìn khác nhau thì hình dạng của các vật là khác nhau. Nếu cái bàn của chúng ta 'thực sự' là hình chữ nhật, nó sẽ trông có vẻ, hầu như từ mọi  góc nhìn, như thể nó có hai góc nhọn và hai góc tù. Nếu những cạnh đối lập song song, trông chúng sẽ như thể nhập về một điểm ở xa người nhìn; nếu chúng có độ dài bằng nhau, trông sẽ như thể cạnh gần hơn thì dài hơn. Thông thường khi nhìn vào một cái bàn người ta không để ý đến tất cả những điều này, bởi vì kinh nghiệm đã dạy chúng ta dựng nên hình dạng 'có thật' từ hình dạng bề ngoài, và hình dạng 'có thật' là những gì làm chúng ta quan tâm với tư cách là những người thực tiễn. Nhưng hình dạng 'có thật' không phải là những gì chúng ta thấy; nó là cái gì đó được suy ra từ  những gì chúng ta thấy. Và những gì chúng ta thấy liên tục thay hình đổi dạng trong khi chúng ta di chuyển quanh căn phòng; vì thế, một lần nữa ở đây những giác quan dường như không cho chúng ta sự thật về bản thân cái bàn, mà chỉ cho chúng ta biết về vẻ ngoài của nó.   

   
Những khó khăn tương tự phát sinh khi chúng ta xem xét từ góc độ xúc giác. Đúng là cái bàn luôn cho chúng ta một cảm giác về sự cứng rắn, và chúng ta cảm thấy rằng nó đề kháng áp lực. Nhưng cảm giác chúng ta có được phụ thuộc vào sức ấn xuống bàn của chúng ta mạnh tới đâu và vào phần thân thể nào tiếp xúc với bàn; vậy, không thể giả định rằng những cảm xúc khác nhau do những áp lực khác nhau hoặc các phần thân thể khác nhau cho ta biết được bất cứ tính chất xác định nào của cái bàn, mà nhiều nhất là ta chỉ có thể biết những dấu hiệu về tính chất nào đó, cái mà có lẽ đã gây ra những cảm giác khi ta chạm vào nhưng lại không rõ ràng trong bất kì một cảm giác nào. Và đối với âm thanh cũng vậy.  
Như thế, rõ ràng là cái bàn thật, nếu có một thứ như vậy, không phải là những gì chúng ta kinh nghiệm trực tiếp qua việc thấy hoặc sờ hoặc nghe. Chúng ta cũng không thể biết được một cách trực tiếp cái bàn thật, nếu có một thứ như vậy, mà chỉ có thể suy đoán từ những gì chúng ta biết. Vì thế, nảy ra hai câu hỏi hóc búa đó là, (1) Liệu có một cái bàn thật không? (2) Nếu có, vậy nó thuộc loại đối tượng nào?     
Một vài thuật ngữ đơn giản, có nghĩa rõ ràng, sẽ giúp chúng ta trong việc xem xét hai câu hỏi trên. Chúng ta hãy đặt tên 'dữ liệu-giác quan' cho những thứ mà chúng ta trực tiếp biết được qua giác quan: như màu sắc, âm thanh, mùi vị, độ cứng, gồ ghề, vân vân. Chúng ta sẽ đặt tên 'cảm xúc' cho kinh nghiệm trực tiếp nhận thức về những thứ này. Như vậy, hễ khi chúng ta thấy một màu, chúng ta có một cảm xúc về màu, nhưng màu sắc tự thân là một dữ liệu-giác quan, không phải một cảm xúc. Màu sắc thì thuộc cái chúng ta nhận thức trực tiếp, và nhận thức này tự thân nó là một cảm xúc. Rõ ràng là nếu chúng ta biết điều gì về cái bàn, tất phải bằng phương tiện của dữ liệu-giác quan—màu nâu, hình chữ nhật thuôn, độ nhẵn, vân vân—; nhưng, vì những lí do đã nêu, chúng ta không thể nói rằng cái bàn là dữ liệu-giác quan, hoặc dữ liệu-giác quan là những tính chất trực tiếp của cái bàn. Như thế, một vấn đề nảy sinh cùng với mối quan hệ về dữ liệu-giác quan với cái bàn thật, cứ giả định là có một thứ như thế.     
Chúng ta sẽ gọi cái bàn thật, nếu nó tồn tại, là một 'đối tượng vật lí'. Như vậy, chúng ta phải xem xét mối quan hệ giữa những dữ liệu-giác quan với những đối tượng vật lí. Sự tập hợp tất cả các đối tượng vật lí được gọi là 'vật chất'. Vì thế, hai câu hỏi của chúng ta có thể phát biểu lại như sau: (1) Liệu có thứ gì đại loại như là vật chất? (2) Nếu có, tính chất của nó là gì?  
Triết gia đầu tiên lý giải rằng những đối tượng trực tiếp của những giác quan đều không tồn tại độc lập với chúng ta, là Giám mục George Berkeley (1685-1753). Tác phẩm của ông, Ba cuộc đối thoại giữa Hylas và Philonous, Đối lập với những kẻ hoài nghi và những kẻ vô thần, đã cất công chứng minh rằng không có gì đại loại như là vật chất, rằng thế giới bao gồm không có gì ngoài tâm trí và ý niệm của chúng ta. Hylas cho đến giờ đã tin vào vật chất, nhưng ông không phải là đối thủ của Philonous, người đã dồn ông một cách không thương xót vào những mâu thuẫn và nghịch lí, và rút cuộc, khiến ông tự phủ nhận vật chất, như thể việc đó hầu như là lẽ thường. Những luận chứng mà họ áp dụng có giá trị rất khác nhau: một số thì trọng yếu và vững chắc, những luận chứng khác thì mơ hồ hay lập lờ. Nhưng Berkeley vẫn giữ được công trạng khi cho thấy sự tồn tại của vật chất có khả năng bị phủ nhận mà không phi lí, và nếu có bất cứ những gì tồn tại một cách độc lập với chúng ta, chúng không thể là cái mà chúng ta có thể trực tiếp biết được qua cảm xúc.
Có hai câu hỏi nảy ra khi chúng ta hỏi vật chất có tồn tại hay không, và điều quan trọng là phải giữ cho chúng được rõ ràng. Thông thường khi nói đến 'vật chất', chúng ta nói đến cái gì đó đối lập với 'tâm trí', là cái gì đó mà chúng ta cho rằng vừa chiếm cứ không gian vừa triệt để không có khả năng nào về tư duy hoặc ý thức. Chủ yếu theo nghĩa này mà Berkeley phủ nhận vật chất; tức là, ông không phủ nhận rằng dữ liệu-giác quan, cái mà chúng ta thường đánh đồng với những dấu hiệu về sự tồn tại của cái bàn, là những dấu hiệu thực sự về sự tồn tại của cái gì đó độc lập với chúng ta, mà ông phủ nhận cái-gì-đó này là phi tâm trí, rằng nó cũng không phải tâm trí cũng không phải là những ý niệm của tâm trí nào đó. Ông thừa nhận rằng, tất phải có gì đó còn tiếp tục tồn tại khi chúng ta ra khỏi căn phòng hoặc nhắm mắt lại, và những gì chúng ta gọi là nhìn thấy cái bàn thì thực tế cho chúng ta lí do để tin tưởng vào cái-gì-đó và nó còn đó ngay cả khi chúng ta không nhìn thấy nó. Nhưng ông cho rằng cái-gì-đó này không thể khác triệt để về tính chất với những gì chúng ta thấy, và không thể độc lập luôn với việc nhìn, mặc dù nó phải độc lập với cái nhìn của chúng ta. Như thế, ông đã dẫn tới việc xem cái bàn 'thật' như là một ý niệm trong tâm trí của Thượng đế. Một ý niệm như thế mang tính vĩnh hằng đòi phải có và sự độc lập với chính chúng ta, dù không là—như vật chất phải là, nếu không như vậy—một thứ gì hoàn toàn không thể biết được, theo cái nghĩa rằng chúng ta chỉ có thể suy đoán nó, và có thể không bao giờ biết một cách trực tiếp và tức khắc.    
Những triết gia khác sau Berkeley cũng chủ trương rằng, mặc dù sự tồn tại của cái bàn không phụ thuộc vào việc tôi nhìn thấy nó, nó quả là phụ thuộc vào việc được nhìn thấy (hoặc mặt khác được cảm nhận bằng cảm xúc) bởi tâm trí nào đó—không nhất thiết là tâm trí của Thượng đế, mà thường là bởi toàn thể tâm trí tập hợp của vũ trụ. Họ chủ trương điều này, như Berkeley từng làm, chủ yếu bởi vì họ cho rằng có thể không có gì là có thật—hoặc được biết là có thật ngoại trừ tâm trí, ý tưởng và cảm xúc của họ. Chúng ta có thể nói rõ luận chứng mà họ dùng để bảo vệ quan điểm của họ theo một cách đại loại như sau: 'Bất cứ gì có thể tư duy về, là một ý niệm trong tâm trí của người đang tư duy về nó; do đó, không gì có thể tư duy, ngoại trừ những ý niệm trong tâm trí; do đó, bất cứ điều gì khác đều là không thể quan niệm được, và điều gì không thể quan niệm được thì không thể tồn tại.'
Một luận chứng như thế, theo ý kiến tôi, là điều thác ngộ (fallacy); và tất nhiên người ta không đưa ra quá vắn tắt hoặc quá thô sơ như vậy. Thế nhưng dù có giá trị hay không, luận chứng này đã được thúc đẩy rộng rãi dưới hình thức này hay hình thức khác; và nhiều triết gia,có thể là đại đa số, đều đã chủ trương rằng không có gì là có thật ngoại trừ tâm trí và ý niệm của họ. Những triết gia đó được gọi là 'những nhà duy tâm'. Khi cần giải thích vật chất, hoặc là họ nói như Berkeley, rằng vật chất thực sự không là gì ngoài một tập hợp những ý niệm, hoặc họ nói, như Leibniz (1646-1716), rằng những gì xuất hiện như là vật chất thì thực sự là một tập hợp ít hay nhiều những tâm linh thô sơ.    
Nhưng những triết gia này, mặc dù họ phủ nhận vật chất như là cái gì đó đối lập với tâm trí, tuy nhiên, theo một nghĩa khác, họ thừa nhận vật chất. Nhớ lại rằng chúng ta đã nêu ra hai câu hỏi; đó là, (1) Liệu có một cái bàn thật không? (2) Nếu có, nó thuộc loại đối tượng nào? Vâng, cả Berkeley lẫn Leibniz thừa nhận rằng có một cái bàn thật, nhưng Berkeley nói rằng nó là những ý niệm nhất định trong tâm trí của Thượng đế, còn Leibniz cho rằng nó là một tập đoàn linh hồn. Như vậy, cả hai người trả lời câu hỏi thứ nhất của chúng ta bằng cách khẳng định, và duy nhất chệch ra khỏi những quan điểm của những người thường trong cách trả lời của họ đối với câu hỏi thứ nhì. Thực tế, hầu hết mọi triết gia gần như đồng ý rằng có một cái bàn thật: hầu như tất cả đều đồng ý điều đó, tuy nhiên phần lớn cái dữ liệu-giác quan của chúng ta—màu sắc, hình dạng, độ nhẵn, vân vân—có thể phụ thuộc vào chúng ta, thế nhưng sự cố của chúng là dấu hiệu về cái gì đó đang tồn tại độc lập ngoài chúng ta, là cái gì đó khác, và có lẽ hoàn toàn khác với dữ liệu-giác quan của chúng ta, thế nhưng lại được xem là nguyên nhân của những dữ liệu-giác quan đó hễ khi nào chúng ta ở trong quan hệ thích hợp với cái bàn thật.           
Hiển nhiên cái quan điểm mà các triết gia đều tán thành—quan điểm cho rằng có cái bàn thật, bất kể bản chất của nó là gì—là cực kỳ quan trọng, và cũng đáng bỏ thời gian xem xét những lí do nào dẫn đến việc người ta chấp nhận quan điểm này trước khi chúng ta chuyển sang những câu hỏi tiếp theo về bản chất của cái bàn thật. Chương tiếp theo, vì thế, sẽ nói tới những lí do nhằm giả định rằng có một cái bàn thật.    
Trước khi chúng ta đi xa hơn, nên dừng một lúc để xem xét coi chúng ta đã phát hiện được những gì cho đến giờ. Có vẻ như, nếu chúng ta xem xét bất cứ đối tượng thông thường nào thuộc loại mà chúng ta giả định là có thể biết qua giác quan, những gì chúng ta biết được qua các giác quan thì không phải là sự thật về đối tượng, mà chỉ là sự thật về những dữ liệu-giác quan nhất định, những cái mà trong chừng mực chúng ta có thể thấy, phụ thuộc vào những quan hệ giữa chúng ta và đối tượng. Như vậy, những gì chúng ta trực tiếp nhìn thấy và cảm thấy chỉ đơn thuần là 'ngoại quan', và chúng ta cho đó là dấu hiệu của một 'thực tại' nào đó ẩn đằng sau. Nhưng nếu thực tại ấy không phải những gì xuất hiện, liệu chúng ta có bất cứ phương tiện nào để biết có bất cứ thực tại nào hay không? Và nếu có, chúng ta có bất cứ phương tiện nào để tìm ra xem nó như thế nào hay không?
Những câu hỏi như thế đều gây bối rối, và thật khó biết rằng ngay cả những giả thuyết kì lạ nhất đều có thể là không đúng. Như thế, cái bàn quen thuộc của chúng ta vốn khơi dậy dù là những ý tưởng sơ sài nhất cho đến nay, đã trở nên một vấn đề đầy những khả năng gây kinh ngạc. Một điều chúng ta biết về nó, ấy là nó không phải là những gì trông như nó có vẻ. Vượt ra ngoài cái kết quả khiêm tốn này, cho đến giờ, chúng ta có sự tự do đầy đủ nhất để phỏng đoán. Leibnitz bảo chúng ta rằng đó là cộng đồng những linh hồn: Berkeley bảo chúng ta rằng đó là một ý niệm trong tâm trí của Thượng đế; khoa học nghiêm cẩn, chắc là không kém kì diệu, bảo chúng ta rằng đó là một tập hợp lớn những điện tích đang vận động mãnh liệt.       
Một trong số những khả năng gây ngạc nhiên này là người ta có thể hoài nghi nêu ra rằng có thể là không có cái bàn nào cả. Triết học, nếu nó không thể giải đáp quá nhiều câu hỏi như chúng ta kì vọng, ít nhất nó có khả năng chất vấn để làm tăng mối quan tâm về thế giới, và cho thấy tính lạ lùng và ảo diệu tiềm ẩn dưới bề mặt, ngay cả trong những sự vật thông thường nhất của đời sống thường ngày.
Hà Vũ Trọng dịch

*Nguồn: The Problems of Philosophy (Những vấn đề của triết học) của Bertrand Russell, 1912; Chương I: 'Appearance and Reality'

0 comments:

Post a Comment

Twitter Delicious Facebook Digg Stumbleupon Favorites More